Trong bối cảnh hiện nay, trước khi các bên chính thức tham gia vào quan hệ lao động bằng một hợp đồng lao động rõ ràng thì thông thường sẽ có giai đoạn thử việc. Tuy vấn đề thử việc chưa được định nghĩa cụ thể trong Bộ luật Lao động hiện hành, song, những vấn đề pháp lý xoay quanh đã được quy định. Người lao động lẫn người sử dụng lao động trong giai đoạn này cần lưu ý một số vấn đề pháp lý nhằm bảo đảm quyền lợi và phòng tránh rủi ro.

I. Quy định chung
Như đã đề cập, tuy chưa có định nghĩa cụ thể nhưng một cách dễ hiểu thì thử việc là sự thỏa thuận tự nguyện của hai bên và không mang tính bắt buộc, đây là quá trình ngắn hạn mà trong đó các bên làm thử nhằm đánh giá năng lực, trình độ, ý thức, điều kiện lao động, điều kiện sử dụng lao động…. trước khi quyết định ký kết hợp đồng lao động chính thức hoặc tiếp tục thực hiện hợp đồng đã giao kết.
Về thời hạn thử việc, pháp luật hiện hành vẫn ưu tiên sự thỏa thuận của mỗi bên, tuy nhiên, thoả thuận đó phải nằm trong khuôn khổ cho phép. Một cách cụ thể, theo quy định tại Điều 25, BLLĐ 2019:
“… chỉ được thử việc một lần đối với một công việc và bảo đảm điều kiện sau đây:
1. Không quá 180 ngày đối với công việc của người quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp;
2. Không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên;
3. Không quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề nghiệp cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật trung cấp, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ;
4. Không quá 06 ngày làm việc đối với công việc khác.”
Về tiền lương, pháp luật lao động một lần nữa vẫn ưu tiên ý chí của các bên. Dẫu vậy, người lao động cần lưu ý rằng tiền lương trong thời gian thử việc phải ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.
II. Nội dung và hình thức của hợp đồng (thỏa thuận) thử việc
Về hình thức, quy định hiện hành yêu cầu các bên có thỏa thuận về việc thử việc nhưng không có quy định rõ ràng về hình thức. Các bên có thể thỏa thuận nội dung thử việc ghi trong hợp đồng lao động hoặc thỏa thuận về thử việc bằng việc giao kết hợp đồng thử việc. Trong trường hợp các bên thỏa thuận nội dung thử việc ngay trong hợp đồng đồng lao động, hình thức bằng văn bản là bắt buộc. Dẫu vậy, nhằm hạn chế các rủi ro tranh chấp thì dù trong trường hợp nào các bên cũng nên thỏa thuận rõ ràng ngay từ đầu bằng văn bản.
Về nội dung, pháp luật về nguyên tắc tôn trọng mọi sự thỏa thuận và chỉ vạch ra những điều khoản buộc phải có. So sánh với một hợp đồng lao động thông thường thì nội dung bắt buộc của quan hệ thử việc được giảm tải một phần. Một cách chi tiết, theo quy định tại Điều 21 và Khoản 2, Điều 24 BLLĐ 2019 thì nội dung của hợp đồng (thỏa thuận) thử việc bao gồm:
“a) Tên, địa chỉ của người sử dụng lao động và họ tên, chức danh của người giao kết hợp đồng lao động bên phía người sử dụng lao động;
b) Họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, nơi cư trú, số thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của người giao kết hợp đồng lao động bên phía người lao động;
c) Công việc và địa điểm làm việc;
đ) Mức lương theo công việc hoặc chức danh, hình thức trả lương, thời hạn trả lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác;
g) Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;
h) Trang bị bảo hộ lao động cho người lao động”.
III. Lưu ý khác
Về giai đoạn trong và sau thử việc,
Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền hủy bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước và không phải bồi thường.
Mặt khác, sau khi giai đoạn thử việc kết thúc, người sử dụng lao động phải thông báo kết quả thử việc cho người lao động. Khi thử việc đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động đã giao kết đối với trường hợp thỏa thuận thử việc trong hợp đồng lao động hoặc phải giao kết hợp đồng lao động đối với trường hợp giao kết hợp đồng thử việc.
Về chính sách bảo hiểm,
Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 có đề cập đến đối tượng tham gia bảo hiểm nội bắt buộc và chỉ đặt ra yêu cầu đối với người lao động có thời hạn của hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc có xác định thời hạn nhưng ít nhất là ba tháng. Do đó, chính sách tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không được đặt ra đối với chủ thể này.